Các bài văn nghị luận xã hội thi đại học đang là nội dung được rất nhiều bạn tìm kiếm. Vậy nên hôm nay Học Chuẩn xin giới thiệu đến các bạn chủ đề Các bài văn nghị luận xã hội thi đại học | Kỹ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội 200 chữ, khác biệt, kì thị thông qua clip và khóa học dưới đây:
Với kĩ năng này, tôi yêu cầu các em làm bài tập thực hành viết văn nghị luận và luôn có ý thức đưa yếu tố biểu cảm vào đoạn văn nghị luận. Mỗi luận điểm đan xen yếu tố biểu cảm như thế nào cho vừa đủ và phù hợp.
Kĩ năng làm bài: + Tạo lập và xây dựng đoạn văn nghị luận: Hình thức: Đoạn văn là tập hợp của nhiều câu văn.Bắt đầu bằng chữ viết hoa đầu dòng và kết thúc bằng dấu chấm. Không được phép xuống dòng.
Bạn đang xem bài: Kỹ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội Để viết một đoạn văn nghị luận xã hội đúng và hay, trước hết, các em cần xác định chính xác nội dung nghị luận, phải nghị luận theo hệ thống ý nhỏ hơn rành mạch với ngôn từ trong sáng giản dị, lập luận chặt chẽ và thuyết phục.
Em hãy viết đoạn văn nghị luận về đề tài này Viết bài văn nêu cảm nghĩ của em nhân sự kiện Thăng Long - Hà Nội sắp tròn 1000 năm tuổi Cho câu chủ đề: Lịch sử ta đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của nhân dân ta.
. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA TRƯỜNG THPT NGA SƠN - SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM RÈN LUYỆN KĨ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI KHOẢNG 200 CHỮ CHO HỌC SINH THPT Người thực hiện Nguyễn Thị Hồng Chức vụ Giáo viên SKKN thuộc lĩnh vực môn Ngữ Văn THANH HÓA NĂM 2020 MỤC LỤC 1. Mở đầu..............................................................................................................1 Lý do chọn đề tài........................................................................................1 Mục đích nghiên cứu..................................................................................2 Đối tượng nghiên cứu.................................................................................2 Phương pháp nghiên cứu............................................................................2 Những điểm mới của SKKN……………………………………………..3 2. Nội dung...........................................................................................................4 Cơ sở lí luận...............................................................................................4 trò, vị trí của văn NLXH................................................................4 thay đổi của văn NLXH trong đề thi hiện nay.........................4 Thực trạng vấn đề trước khi viết sáng kiến................................................4 lợi……………………………………………………………..5 Khó khăn…………………………………………………………….5 Các giải pháp cụ thể...................................................................................5 Văn NLXH..........................................................................................5 luận về tư tưởng đạo lí………………………………………..6 luận về một hiện tượng đời sống……………………………..6 Khái lược về đoạn văn.........................................................................7 Kĩ năng viết đoạn NLXH....................................................................7 Nội dung thực nghiệm và kết quả............................................................10 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm …………………………………...15 3. Kết luận, kiến nghị........................................................................................16 Kết luận....................................................................................................16 Kiến nghị..................................................................................................16 1. Mở đầu Lý do chọn đề tài Những năm gần đây Bộ GD-ĐT ngày càng chú trọng nhiều hơn đến việc nâng cao chất lượng giáo dục ở các cấp học nhằm cung cấp tri thức toàn diện cho người học, đặc biệt là nâng cao chất lượng dạy và học Ngữ văn trong trường phổ thông. Trên cơ sở đó rèn luyện năng lực cảm thụ văn học, bồi dưỡng tình cảm tâm hồn nhân cách chuẩn bị cho các em hành trang tri thức vào đời. Năm học 2016-2017 trong phần Làm văn ở dạng bài NLXH, thay vì học sinh viết bài văn NLXH như các năm trước thì trong cấu trúc đề thi minh họa những năm sau này, trong đề thi mà bộ đưa ra cũng như trong các bộ đề luyện thi của nhiều tác giả đã yêu cầu học sinh viết đoạn văn NLXH. Trong xu thế đổi mới việc dạy và học Ngữ văn nói chung và cụ thể là đổi mới chương trình và sách giáo khoa sau một thời gian thí điểm từ năm học trước Bộ GD và ĐT đã đưa vào sử dụng bộ sách giáo khoa mới theo chương trình phân ban Bỏ đi một số tác phẩm không phù hợp, một số văn bản mới đưa được đưa vào chương trình Ngữ văn. Khi làm bài NLVH các em đã được trang bị kiến thức từ những tiết đọc hiểu văn bản, còn văn NLXH học sinh gặp không ít khó khăn cả về nội dung và phương pháp. Trước đây học sinh đang quen với việc viết bài văn NLXH bằng các thao tác lập luận cần thiết, nay với yêu cầu đổi mới viết một đoạn văn, học sinh sẽ có những lúng túng, bỡ ngỡ. Với học sinh việc viết một bài văn NLXH đã khó, nay phải viết đoạn NLXH lại càng khó hơn. Đây quả là một thử thách đối với học sinh THPT. Là một giáo viên Ngữ Văn đang trực tiếp giảng dạy khối 12, chúng ta phải làm gì để giúp học sinh có được kĩ năng cần thiết viết đoạn văn NLXH một cách tốt nhất. Nỗi băn khoăn, sự trăn trở và suy nghĩ của tôi cũng là của tất cả giáo viên Ngữ văn THPT mong muốn học sinh tiếp cận vấn đề, giải quyết vấn đề đặt ra và viết tốt đoạn NLXH để làm bài thi TNTHPT đạt hiệu quả đó bồi dưỡng cho các em lòng yêu thích và niềm đam mê học môn Ngữ văn, giúp các em hiểu đời hiểu người, có đời sống tình cảm tâm hồn thêm phong phú và hình 1 thành được kĩ năng sống cần thiết. Đồng thời những vấn đề đặt ra từ đề bài văn NLXH góp phần thực hiện mục đích giáo dục hoàn thiện nhân cách cho học sinh giúp các em có thêm tri thức để bước vào đời. Với đề tài “Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn NLXH khoảng 200 chữ cho học sinh THPT”, người viết muốn chia sẻ với đồng nghiệp phương pháp dạy học sinh viết đúng, viết nhanh, viết hay một đoạn văn NLXH nhằm đạt được số điểm tối đa như một cách các em chinh phục bản thân và qua bài viết chúng ta có thể đánh giá phần nào về nhận thức, hiểu biết, tâm lí, mục đích sống, các kĩ năng trong đó có kĩ năng viết văn và thái độ với môn Ngữ văn của học sinh hiện nay. Cần thay đổi cách nghĩ và khoa học hóa cách làm. Thực chất với một yêu cầu mới, cả người dạy và người học đều cần chuẩn bị về tâm lí, kĩ năng phù hợp để có sự thích nghi tốt nhất và hoàn toàn có thể định lượng về mặt thời gian, dung lượng kiến thức, số lượng dòng cho bài làm. Đó là lí do mà tôi chọn đề tài này. Mục đích nghiên cứu Mục đích của tôi nghiên cứu đề tài này nhằm giúp học sinh vận dụng hiểu biết kiến thức xã hội để làm văn NLXH, có kĩ năng viết đoạn văn NLXH nhằm đáp ứng yêu cầu việc đổi mới kiểm tra đánh giá của bộ GD và ĐT. Đối tượng nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu mang tính thực tế cao, nhằm đưa ra cách viết một đoạn văn NLXH khoa học, hiệu quả, có thể áp dụng rộng rãi cho giáo viên và học sinh trong dạy, học, thi môn Ngữ văn. Phương pháp nghiên cứu Ở đề tài này, người viết đã vận dụng linh hoạt nhiều phương pháp nghiên cứu nhằm phát huy hiệu quả tổng hợp ưu thế của các phương pháp. Trong đó các phương pháp được sử dụng chủ yếu là - Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết. - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin từ các nguồn tài liệu ôn thi, các đề thi thử nghiệm, các đề thi thử của các trường THPT, các đề 2 thi học sinh giỏi của các tỉnh và khu vực, các báo cáo, luận văn của sinh viên, thạc sĩ,…. - Phương pháp tâm lí. - Phương pháp so sánh. - Phương pháp thử nghiệm thực tiễn. Những điểm mới của SKKN *Tính mục đích Đề tài đã giải quyết được những mâu thuẫn, những khó khăn gì có tính chất thời sự trong công tác giảng dạy, giáo dục học sinh. Tác giả viết SKKN nhằm mục đích gì? nâng cao nghiệp vụ công tác của bản thân, để trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp, để tham gia nghiên cứu khoa học… . *Tính thực tiễn Tác giả trình bày được những sự kiện đã diễn ra trong thực tiễn công tác giảng dạy, giáo dục của mình. Những kết luận được rút ra trong đề tài phải là sự khái quát hóa từ những sự thực phong phú, những họat động cụ thể đã tiến hành cần tránh việc sao chép sách vở mang tính lý thuyết đơn thuần, thiếu tính thực tiễn. *Tính sáng tạo khoa học Trình bày được cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn làm chỗ dựa cho việc giải quyết vấn đề đã nêu ra trong đề tài. Trình bày một cách rõ ràng, mạch lạc các bước tiến hành trong SKKN. Các phương pháp tiến hành mới mẻ, độc đáo. Dẫn chứng các tư liệu, số liệu và kết quả chính xác làm nổi bật tác dụng, hiệu quả của SKKN đã áp dụng. Tính khoa học của một đề tài SKKN được thể hiện cả trong nội dung lẫn hình thức trình bày đề tài cho nên khi viết SKKN, tác giả cần chú ý cả hai điểm này. *Khả năng vận dụng và mở rộng SKKN Trình bày, làm rõ hiệu quả khi áp dụng SKKN có dẫn chứng các kết quả,các số liệu để so sánh hiệu quả của cách làm mới so với cách làm cũ ; Chỉ ra được những điều kiện căn bản, những bài học kinh nghiệm để áp dụng có hiệu quả SKKN, đồng thời phân tích cho thấy triển vọng trong việc vận dụng và phát triển SKKN đã trình bày Đề tài có thể vận dụng trong phạm vi nào? Có thể mở rộng, phát triển đề tài như thế nào? . 3 2. Nội dung Cơ sở lí luận Vai trò, vị trí của văn NLXH * Trong đời sống NLXH được ứng dụng rộng rãi trong đời sống, các bài bình luận về xã hội, về một hiện tượng một vấn đề, thuộc lĩnh vực chính trị xã hội, văn hóa, kinh tế. Dù tồn tại ở dang nói hay dang viết thì nó luôn có vai trò và vị trí quan trọng trong đời sống xã hội. Nó giúp con người nhìn nhận một cách đầy đủ cập nhật khách quan các vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống hàng ngày. * Trong nhà trường THPT Trong chương trình Ngữ văn THPT phần Làm văn nghị luận xã hội được đặc biệt quan tâm. Ngay từ lớp 11 hoc sinh được thực hành khá kĩ, ở lớp 12 học sinh còn được học hai bài lí thuyết Nghị luận về một tư tưởng đạo lí và một hiện tượng đời sống. Ngoài ra học sinh còn được thực hành viết khá nhiều, ở các bài thi học kì, các kì thi khảo sát chất lượng và ra các đề cho học sinh luyện tập. Như vậy ta thấy rằng NLXH có vị trí rất quan trọng trong nhà trường, ở đó học sinh không chỉ được tiếp cận các dạng NLXH, mà còn được thực hành tạo lập văn bản, giúp các em hoàn thiện kiến thức và kĩ năng làm văn. thay đổi của văn NLXH trong đề thi hiện nay Với những đổi mới của đề thi TNTHPT từ năm 2017 do Bộ GD và ĐT ban hành thì cấu trúc đề thi Ngữ văn có sự thay đổi Thời gian làm bài thi từ 180 phút nay xuống còn 120 phút. Câu NLXH 3 điểm viết bài văn nay viết một đoạn văn khoảng 200 chữ. Câu đọc hiểu và NLXH có sự tích hợp theo hướng vận dụng cao, điều này gây không ít khó khăn cho học sinh. Nhiều em đã quen với việc viết bài văn NLXH nên sẽ rất lúng túng khi đề bài yêu cầu viết đoạn văn NLXH, dẫn đến tình trạng viết lan man, viết xa đề bài . Với SKKN, bản thân tôi muốn rèn cho học sinh kĩ năng viết đoạn văn NLXH khoảng 200 chữ để bài thi tốt nghiệp THPT của các em đạt kết quả cao. Thực trạng vấn đề trước khi viết sáng kiến 4 Thuận lợi Bắt đầu từ khi đổi mới chương trình thay sách giáo khoa 2006-2007, các bộ sách giáo khoa, sách giáo viên đã in ấn kịp thời, các phương tiện truyền thông như báo, đài, internet,… rộng khắp đã giúp học sinh chủ động, hứng thú hơn trong việc học tập Ngữ Văn. Hiện nay với sự phát triển của đời sống xã hội thì NLXH đóng vai trò quan trọng. Cái hay của dạng văn này là học sinh không phải học thuộc làm bài, không phụ thuộc tài liệu mà được tự do trình bày suy nghĩ, quan điểm của bản thân về một vấn đề cụ thể, từ đó rút ra những bài học nhận thức và hành động. Vì vậy học sinh cũng có hứng thú hơn khi làm bài NLXH. Khó khăn Bài NLXH đóng vai trò, vị trí quan trọng, học sinh cũng được rèn luyện nhiều nhưng kết quả bài làm của học sinh chưa thực sự tốt. Điều này có nhiều nguyên nhân. + Nhận thức và sự đánh giá nhìn nhận vấn đề của các em còn hạn chế, chưa toàn diện, chưa có sự suy nghĩ sâu . + Viêc tìm hiểu văn NLXH trong nhà trường còn hạn chế . Các bài văn NLXH học sinh viết được ít, trong giảng dạy giáo viên chỉ chủ yếu rèn cho học sinh kĩ năng làm bài NLVH vì liên quan trực tiếp đến các tác phẩm trong chương trình. Vì thế học sinh còn mơ hồ về phương pháp làm bài văn NLXH. Viết một bài nghị luân tốt với các em đã khó nay phải viết đoạn văn NLXH thì lại càng khó hơn. giải pháp cụ thể bài NLXH NLXH thực chất là một phương pháp nghị luận lấy đề tài từ các lĩnh vực Chính trị, đạo đức, xã hội là nội dung bàn bạc nhằm làm sang tỏ cái đúng, sai, tốt, xấu của vấn đề nêu ra. Từ đó đưa ra những cách hiểu thấu đáo về vấn đề nghị luận cũng như vận dụng nó vào đời sống. Cùng với kiểu bài NLVH thì kiểu bài NLXH là nội dung cần thiết trong quá trình học và thi của học sinh. Thông 5 thường sẽ có hai loại chính Nghị luận về một tư tưởng đạo lí và nghị luận về một hiện tượng xã hội. Ngoài ra còn loại nghị luận về một vấn đề xã hội rút ra trong tác phẩm văn học. luân về tư tưởng đạo lí * Khái niệm Nghị luân về tư tưởng đạo lí là dạng nghị luận kết hợp các thao tác lập luân để làm sáng tỏ các vấn đề tư tưởng đạo lí trong đời sống. Cụ thể Nghị luận về quan điểm đạo đức, lối sống, lí tưởng sống; Nghị luận về một quan điểm, về các vấn đề văn hóa, giáo dục, dân tộc; Nghị luận về phương pháp tư tưởng; Nghị luân về mối quan hệ giữa con người – con người, gia đình và ngoài xã hội. *Kĩ năng làm bài - Tìm hiểu đề Đọc kĩ đề bài, chú ý những từ quan trọng, những khái niệm, nghĩa đen, nghĩa bóng, chia vế ngăn đoạn . Nội dung Vấn đề nghị luận là gì? Có bao nhiêu ý, các ý cần triển khai. Thao tác lập luân Sử dụng các thao tác lập luận nào, giải thích, phân tích, bình luận, chứng minh. Phạm vi tư liệu dẫn chứng Dẫn chứng từ thực tế, từ tác phẩm văn học. - Lập dàn ý Giải thích ý kiến Chú ý các khái niệm, các vế, rút ra ý khái quát của vấn đề . Cần giới thiệu một cách ngắn gọn rõ ràng, tránh trình bày chung chung. Phân tích bàn bạc vấn đề trên các phương diện đúng - sai, tốt - xấu, tích cực - tiêu cực, đóng góp - hạn chế cần kết hợp dẫn chứng để chứng minh. Khẳng định ý nghĩa của vấn đề trong lí luận về đời sống thực tiễn. Liên hệ bản thân, rút ra bài học nhận thức và hành động. luận về một hiện tượng đời sống *Khái niệm Nghị luận về hiện tượng đời sống là bài nghị luận có sử dụng các thao tác lập luận để làm người đọc hiểu rõ, đúng, hiểu sâu về những hiện tượng đời sống 6 có ý nghĩa xã hội. Có các dạng như sau Nghị luận về hiện tượng liên quan đến môi trường sống tự nhiên của con người; Nghị luận về một hiện tương liên quan đến môi trường sống xã hội; Nghị luận về một sự việc tích cực đáng biểu dương hoặc tiêu cực đáng phê phán. *Kĩ năng làm bài - Tìm hiểu đề Đọc kĩ đề bài, chú ý những từ quan trọng, những khái niệm, nghĩa đen, nghĩa bóng, chia vế ngăn đoạn, mối tương quan giữa các vế; Về nội dung Vấn đề nghị luận là gì? Có bao nhiêu ý, các ý cần triển khai,... ;Thao tác lập luận; Sử dụng các thao tác lập luận nào, giải thích, phân tích, bình luận, chứng minh; Phạm vi tư liệu, dẫn chứng Dẫn chứng từ thực tế, từ tác phẩm văn học . - Lập dàn ý Giải thích, phân tích, chứng minh biểu hiện nguyên nhân và hậu quả của sự việc, hiện tượng; Bình luận về hiện tượng Nhận xét, nêu thái độ về hiện tượng. Đánh giá hiện tượng tốt, xấu, lợi, hại như thế nào? Phương hướng hành động; Rút ra bài học tư tưởng đạo lí; Xây dựng hệ thống dẫn chứng tiêu biểu. Xác định đoạn văn sẽ viết theo kiểu nào diễn dịch, quy nạp hay tổng - phân - hợp Khái lược về đoạn văn Đoạn văn là một phần của văn bản, nó diễn đạt một ý hoàn chỉnh. Các câu trong đoạn văn liên kết chặt chẽ với nhau, góp phần thể hiện nội dung. Đoạn văn được bắt đầu bằng chữ cái viết hoa lùi đầu dòng và kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng. Các loại đoạn văn đoạn văn diễn dịch, quy nạp, móc xích, song hành, tổng phân hợp. Kĩ năng viết đoạn văn NLXH Để làm tốt câu NLXH, học sinh cần chú ý các bước sau *Bước 1 Đọc kĩ bài đọc hiểu, nắm được nội dung cốt lõi của đoạn văn bản. Xác định xem phần đọc hiểu bàn về vấn đề gì nhất là phải xác định được vấn đề đó 7 thuộc tư tưởng đạo lí hay hiện tượng đời sống; Xác định được các thao tác lập luận. Xác định hệ thống dẫn chứng tiêu biểu. Xác định đoạn văn sẽ viết theo kiểu nào diễn dịch, quy nạp, hay tổng phân hợp Ví dụ Đọc đoạn đọc hiểu sau Những người dễ thoát khỏi những suy nghĩ tiêu cực cũng chính là biết chấp nhận cuộc sống của bản thân. Mỗi người chúng ta đều đều có những điểm mạnh, điểm yếu riêng, bởi vậy khi so sánh bản thân với người khác, chúng ta không chỉ“ thấy khoảng cách” giữa mọi người mà còn thấy được “sự khác biệt” trong mỗi người. Tự bản thân nghĩ như thế nào về mình được gọi là “tự đánh giá bản thân”. Khi một người đánh giá thấp bản thân, anh ta sẽ tự giày vò bản thân bớt cảm giác tự ti, chán ghét chính mình và chỉ nhìn mọi chuyện theo hướng tiêu cực. Cũng có nhiều trường hợp so sánh điểm mạnh của người khác với điểm yếu của bản thân, sau đó tự giam mình trong cảm giác tự ti, mặc cảm. Ngược lại, nếu một người biết đánh giá bản thân phù hợp, dù gặp thất bại thì người đó vẫn tiếp tục hi vọng vào lần sau, tiếp thu thất bại lần này và học hỏi kinh nghiệm trong đó. Tôi có một người quen, anh là một người học rất giỏi, thời đại học anh đi làm người mẫu. Nhìn bề ngoài, anh hoàn hảo đến mức mọi người phải ghen tị, nhưng thực ra anh ấy lại tự đánh giá thấp bản thân. Ngay từ nhỏ anh ấy thường bị bố mẹ so sánh với người khác, bản thân cũng chỉ là kẻ nửa vời mà thôi… chính vì vậy, việc tự đánh giá bản thân ở mức thích hợp là điều quan trọng nhất. Câu nghị luận xã hội được cho là Hãy viết một đoạn văn 200 chữ trình bày suy nghĩ của anh, chị về “việc tự đánh giá bản thân ở mức thích hợp là điều quan trọng nhất”. Như vậy phần NLXH được tích hợp trong phần đọc hiểu. Vậy để làm tốt phần NLXH, học sinh phải đọc kĩ phần đọc hiểu để hiểu được câu trên nằm trong một chỉnh thể mà ở đó tác giả đã dạy chúng ta về việc tự đánh giá bản thân ở mức độ thích hợp là một điều quan trọng. *Bước hai Xây dựng phần mở đoạn 8 Phần mở đoạn viết khoảng 1-3 câu, thể hiện cái nhìn tổng quát, khái quát được nội dung vấn đề cần nghị luận mà đề bài yêu cầu. Nên viết theo hướng Nêu khái quát nội dung - dẫn câu nói vào hoặc trích cụm từ khóa. Ví dụ theo đề trên ta viết như sau Nó giúp mỗi người pháp huy được năng lực, sở trường và khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, ngày càng tự hoàn thiện mình; Giúp chúng ta có một tâm lí thoải mái, vui vẻ, hài lòng với cuộc sống của mình, tránh tự ti mặc cảm. Giúp chúng ta có một cái nhìn tích cực về mọi vấn đề trong cuộc sống Chấp nhận sự khác biệt của mình và những người khác, nhìn thấy gía trị riêng của mỗi người, nhìn thấy hi vọng trong thất bại. *Bước 3 Xây dựng phần thân đoạn Đối với đề nghị luận về tư tưởng đạo lí Phải giải thích được cụm từ khóa, giải thích được cả câu cần ngắn gọn, đơn giản. Bàn luận Đặt ra các câu hỏi Vì sao lại khẳng định như vậy? Có ý nghĩa như thế nào? Khẳng định tính đúng đắn của ý kiến. Dẫn chứng xác thực, phù hợp. Đưa ra phản đề, phê phán mặt trái của ý kiến. Rút ra bài học nhận thức và hành động, liên hệ bản thân. Đối với đề nghị luân về hiện tượng đời sống. Giải thích, phân tích, chứng minh biểu hiện, nguyên nhân và hậu quả của sự việc, hiện tượng. Bình luận, đánh giá về hiện tượng Nêu thái độ đối với hiện tượng. Đánh giá hiện tượng tốt, xấu, lợi, hại như thế nào? Phương hướng, hành động. Rút ra bài học nhân thức về tư tưởng đạo lí. *Bước 4 Xây dựng phần thân đoạn Khẳng định lại vấn đề cần nghị luận. Có thể trình bày bài học nhận thức hành động, liên hệ bản thân ở phần kết đoạn. *Bước 5 Viết đoạn văn “Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản. Trong nhiều trường hợp đoạn văn có khả năng tồn tại độc lập giống như một văn bản bởi xét về mặt nội dung, đoạn văn diễn đạt một ý tương đối trọn vẹn; xét về mặt hình thức, đoạn văn là 9 phần văn bản bắt đầu từ chữ viết hoa lùi vào đầu dòng, kết thúc bằng một dấu chấm xuống dòng, đoạn có một hoặc do nhiều câu liên kết tạo thành” Một đoạn văn bình thường sẽ được tạo nên từ các câu. Ở những vị trí khác nhau các câu có vai trò khác nhau. Câu mở đoạn là câu nêu vấn đề; câu khai triển đoạn là câu phát triển ý được nêu ở câu mở đoạn; câu kết đoạn là câu khép lại vấn đề; câu chủ đề là câu mang ý chính của toàn đoạn. Vị trí của câu chủ đề tùy thuộc vào kết cấu của đoạn. Khi viết đoạn văn nghị luận phải đáp ứng được cả yêu cầu về hình thức và nội dung. + Về hình thức Đoạn văn phải được bắt đầu bằng chữ cái viết hoa lùi dòng cho đến dấu chấm kết thúc. Dung lượng đoạn văn khoảng 200 chữ - không thừa quá nhiều so với yêu cầu đề bài. + Về nội dung Đoạn văn phải đáp ứng được các nội dung đã trình bày ở các bước như trên đã hướng dẫn. Như vậy việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn NLXH cho học sinh được tiến hành qua năm bước. Trong quá trình hướng dẫn học sinh viết đoạn văn, giáo viên đi từng bước và hướng dẫn học sinh cụ thể để rèn cho các em kĩ năng viết đoạn văn vì đoạn văn nghị luận là một phần của văn bản nghị luận; góp phần xác lập cho người đọc, người nghe một tư tưởng, một quan điểm. Trong bài văn nghị luận nói chung và đoạn văn nghị luận nói riêng, trong đó có đoạn văn NLXH cần hình thành được hệ thống luận điểm, luận cứ, luận chứng rõ ràng và lập luận chặt chẽ. Có thể triển khai một đoạn văn nghị luận bằng một trong các phương pháp diễn dịch, quy nạp, song hành, móc xích, tổng - phân - hợp. Nội dung thực nghiệm và kết quả Từ cách viết trên, người làm đề tài này đã áp dụng trong quá trình dạy học và ôn thi cho học sinh khối 12 với những đề bài cụ thể nhằm rèn luyện kĩ năng và đánh giá năng lực thực tế của các em. Từ đó góp phần tạo tâm thế chủ động của người học, với việc làm đó tôi xin trích dẫn một số nội dung bài viết và kết 10 quả thực nghiệm của học sinh trường THPT Nga Sơn về cách viết đoạn văn nghị luận xã hội như sau Đề bài 1 Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ của anh, chị về những hành động nhỏ làm nên người anh hùng giữa đời thường. Bài làm của học sinh Nguyễn Thị Thu Ngân lớp 12A, trường THPT Nga Sơn Anh hùng là người can đảm cống hiến trong mọi hoàn cảnh dù là khó khăn nhất, là một cá nhân hành động không vị kỉ và luôn đòi hỏi bản thân mình phải tốt hơn so với mức kì vọng của người khác,là người xem thường nghịch cảnh. Đừng nghĩ anh hùng là phải có sức mạnh phi thường, có đóng góp to lớn cho cộng đồng. Hãy suy nghĩ rằng anh hùng cũng chỉ là những con người bình thường như bao người khác, chỉ khác là họ luôn phấn đấu để hoàn thiện mình, sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn, mà không run sợ hay tính toán. Bài làm của học sinh Vũ Thị Tâm lớp 12A, trường THPT Nga Sơn Những hành động nhỏ là những việc làm nhỏ, bình dị trong cuộc sống hàng ngày. Người anh hùng giữa đời thường là cá nhân luôn sống và cống hiến những giá trị tích cực cho cộng đồng. Cái đẹp, cái tốt không nhất thiết phải là những cái lớn lao, kì vĩ. Những hành động nhỏ có ý nghĩa sẽ góp phần xây dựng và bảo vệ cộng đồng, tạo ra động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Cá nhân thực hiện hành động nhỏ cống hiến, có ích cho cộng đồng sẽ trở thành những người anh hùng giữa cuộc sống đời thường. Dẫn chứng Trong việc phòng chống tội phạm, những việc làm của các hiệp sĩ đường phố đã góp phần bảo vệ an ninh trật tự của các tuyến phố tại Thành phố Hồ Chí Minh, trong đại dịch SAT- Covid 2, những y bác sĩ, chiến sĩ công an, anh bộ đội, bà mẹ Việt Nam anh hùng, thanh niên, nhân dân,… đã có những hành động nhỏ bé như khám chữa bệnh, quyên góp lương thực, làm tình nguyện viên, tự giác cách li,… chính những hành động ấy đã cùng Đảng và Nhà nước góp phần chống lại dịch 11 bệnh thành công với lời kêu gọi “chống dịch như chống giặc”. Liên hệ đến hành động thực tiễn của bản thân. Đề bài 2 Từ bài hát “Ông bà anh” của Lê Thiện Hiếu đang được rất nhiều bạn trẻ yêu thích, có người cho rằng “Đừng bận tâm so sánh tình yêu xưa - nay làm gì. Dù ngày xưa hay ngày nay thì nó vẫn đẹp như nó vốn thế mà thôi”. Anh/ Chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ bàn luận về ý kiến trên. Bài làm của học sinh Lã Thị Hà lớp 12H, Trường THPT Nga Sơn Tình yêu là đề tài muôn thuở, là gia vị không thể thiếu trong cuộc sống của con người, đặc biệt là người trẻ. Lê Thiện Hiếu, một nhạc sỹ, ca sỹ trẻ đã đưa ra quan niệm về tình yêu của anh qua bài hát “Ông bà anh”, một bài hát được rất nhiều bạn trẻ yêu thích. Từ bài hát có ý kiến cho rằng “Đừng bận tâm so sánh tình yêu xưa - nay làm gì. Dù ngày xưa hay ngày nay thì nó vẫn đẹp như nó vốn thế mà thôi”. Quả thật là như vậy. Tình yêu là thứ tình cảm vô cùng đặc biệt và đẹp đẽ luôn tồn tại vĩnh cửu trong cuộc sống con người. Xưa- nay tình yêu vẫn thế, vẫn đẹp đẽ, tinh khôi, mãnh liệt và dữ dội như vậy. Tình yêu luôn là nguồn cảm hứng vô tận, tình yêu đi vào thơ ca, đi vào cuộc sống của con người. Chẳng phải mối tình Kim - Kiều trong “Truyện Kiều” là minh chứng rõ ràng, tiêu biểu nhất cho tình yêu xưa hay sao? Hay qua “Vội vàng” của Xuân Diệu, “Sóng” của Xuân Quỳnh, ta vẫn cảm nhận được tính chất của tình yêu xưa và nay mãnh liệt, dữ dội, dồn nén, khao khát đến trào dâng. Tình yêu vẫn thế, vẫn là nỗi nhớ, những kỉ niệm ngọt ngào của con người luôn được lưu giữ như một phần kí ức không thể nào quên. Tuy tình yêu xưa nay vẫn đẹp như thế nhưng cũng có một số bạn trẻ đã bỏ quên, đánh mất giá trị của tình yêu, xem tình yêu là một thú vui, là trò đùa. Bài làm của học sinh Mai Thị Phương lớp 12B, Trường THPT Nga Sơn 12 Tình yêu là một đề tài muôn thở của nghệ thuật và cuộc sống con người. Bài hát “Ông bà anh” của Lê Thiện Hiếu đang là nhạc phẩm được rất nhiều bạn trẻ yêu thích, nhưng mỗi người lại có một quan niệm riêng về tình yêu. Tình yêu là cảm xúc xuất phát từ con tim, song có người lại cho rằng “Đừng bận tâm so sánh tình yêu xưa - nay làm gì. Dù ngày xưa hay ngày nay thì nó vẫn đẹp như nó vốn thế mà thôi”. Tình yêu ngày xưa gắn liền với những chiếc xe đạp cũ kĩ, những bức thư tay đầy cảm xúc. Tình yêu ngày nay là tình yêu của những phương tiện hiện đại. Đề bài 3 Trong bài phát biểu nhân kỉ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, học giả Vũ Khiêu có câu “Để giàu sang, một con người có thể chỉ mất vài năm, nhưng để trở thành người có văn hóa có thể phải mất hàng chục năm, có khi cả cuộc đời” Anh/ Chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ bàn luận về ý kiến trên. Bài làm của học sinh Vũ Thị Yến lớp 12I, Trường THPT Nga Sơn Văn hóa là một khái niệm rộng bao gồm mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ khoa học cho đến nghệ thuật, từ đời sống tâm hồn, đến thói quen sinh hoạt, thị hiếu thẩm mĩ, giao tiếp ứng xử,... của con người. Còn trong câu nói trên tác giả bàn đến văn hóa của một người, là sự hội đủ của hai yếu tố văn hóa tri thức và văn hóa tinh thần. Đây là một ý kiến hoàn toàn đúng và xác đáng. Để giàu sang, một con người có thể chỉ mất vài ba năm, thậm chí ngắn hơn nữa bằng sự cần cù và sáng tạo trong lao động. Nhưng để hình thành nền tảng văn hóa tri thức, con người cần rèn luyện, tích lũy trong khoảng thời gian hàng chục năm khi ngồi trên ghế nhà trường và thậm chí trong suốt cả cuộc đời như Lê nin đã nói Học, học nữa, học mãi. Với giá trị văn hóa tinh thần cũng vậy, đó là vẻ đẹp tâm hồn, là đạo đức mỗi người phải tu dưnng suốt cả cuộc đời như tình yêu thương, nhân ái, lòng vị tha, khoan dung, sự sẻ chia, ý thức dân tộc, thái độ trân trọng lịch sử, văn hóa giao tiếp ứng xử giữa người và người trong cuộc sống,…Văn hóa tri thức và đạo đức nhân cách của con người có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. 13 Những người có trình độ cao thường là những nhân cách đáng trọng. Tuy nhiên điều đó không hoàn toàn đúng với mọi trường hợp bởi trên thực tế, nhiều người có trình độ văn hóa cao vẫn có thể có những suy nghĩ ấu trĩ và mắc những sai lầm trong giao tiếp văn hóa ứng xử. Ngược lại, có những người dù không được học cao nhưng nhân cách vẫn rạng ngời. Vì vậy, song song với việc bồi đắp tri thức văn hóa, chúng ta còn phải học làm người, tăng cường rèn luyện kĩ năng sống, bởi việc rèn luyện để trở thành người có văn hóa là quan trọng, cần thiết. Để đào luyện một con người có văn hóa cần có sự chung tay của cả gia đình, nhà trường, xã hội, đặc biệt là ý thức chủ động của cá nhân. Khi mỗi chúng ta tự mình rèn luyện thì “văn hóa” sẽ hiện hữu ở mọi nơi, cuộc sống sẽ ngày càng văn minh, hiện đại. Đề bài 4 Có ý kiến cho rằng “Con người từng ngày thay đổi công nghệ nhưng chính công nghệ cũng đang thay đổi cuộc sống con người”. Anh/ Chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ bàn luận về ý kiến trên. Bài làm của học sinh Mai Thị Xuân lớp 12I, Trường THPT Nga Sơn Đã bao giờ bạn tự hỏi nếu một ngày không có điện thoại, laptop hay những đồ công nghệ khác, cuộc sống sẽ ra sao? Chúng ta vẫn thường coi công nghệ như một điều thiết yếu của cuộc sống và nghĩ rằng những sự thay đổi đó là do con người. Nhưng ý kiến trên lại khiến chúng ta phải nhìn nhận lại, phải chăng công nghệ đang ngày ngày chi phối, định hướng hành vi, thói quen không chỉ của cá nhân mà của cả cộng đồng. Thuật ngữ công nghệ có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp, hàm nghĩa về các công cụ, kĩ năng và mưu mẹo của con người trong các hoạt động sống. Ngày nay, công nghệ được xem là hệ thống các phương pháp, công cụ, quy trình tạo ra sản phẩm vật thể và phi vật thể hay năng lực giải quyết vấn đề tối ưu. Con người đang ngày càng phát triển công nghệ nhưng cũng đồng thời lệ thuộc và nó, bị nó chi phối. Việc phát triển, biến đổi công nghệ là quy luật tất yếu, khi con người chủ động thay thế phần quan trọng cơ bản, cốt lõi hay toàn bộ công nghệ đang sử dụng bằng 14 công nghệ khác tiên tiến hơn. Công nghệ hiện diện trong mọi lĩnh vực của đời sống và đem đến cho chúng ta những lợi ích không thể phủ nhận cuộc sống chúng ta ngày một tốt hơn, tiết kiệm sức lao động,…Tuy nhiên, cũng có những ảnh hưởng tiêu cực khi sự lệ thuộc vào công nghệ ngày càng cao. Điều đó dẫn đến việc lười suy nghĩ, lười vận động, những mối quan hệ cũng trở nên lạnh lùng, khô cứng khi đa số lựa chọn duy trì việc gặp gn, trò chuyện, quan tâm qua mạng xã hội. Thế giới công nghệ còn khiến con người dễ rơi vào trạng thái ảo tưởng. Trong thời đại hiện nay, vẫn cần thiết phát triển công nghệ. Tuy nhiên, việc sử dụng công nghệ cần tiết chế phù hợp. Các cơ quan chức năng cần tăng cường quản lý, sử dụng công nghệ để phục vụ cho mục đích lành mạnh. Và mỗi người cũng cần cân bằng giữa việc sử dụng công nghệ và thực hiện trách nhiệm với cộng đồng, gia đình, để công nghệ trở thành công cụ phục vụ một cách hiệu quả cho cuộc sống của chúng ta. Hiệu quả của SKKN Có thể hiểu một cách khái quát về sáng kiến kinh nghiệm trong ngành giáo dục chính là những kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm mà người làm công tác dạy học đã tích lũy được trong côn tác giảng dạy và giáo dục. Với đề tài “Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn NLXHkhoảng 200 chữ cho học sinh THPT”, người viết đã tìm được hướng giải quyết phù hợp cho sự thay đổi với yêu cầu mới của đề thi. Ngay từ đầu chúng ta cần giúp học sinh nhận thức lại về môn Ngữ văn cũng như phương pháp tìm hiểu về nó. Bên cạnh yếu tố cảm xúc cần có trong quá trình dạy và học thì góc nhìn khoa học cũng không thể thiếu khi học sinh muốn hiểu, ghi nhớ và hệ thống lại kiến thức, nhất là qua các kì thi. Mục đích cuối cùng đã đạt được khi học sinh chủ động hiện thực hóa bài làm trong khung thời gian quy định mà vẫn đảm bảo yêu cầu của đoạn văn NLXH. Các em không còn bối rối với tâm lí “không biết bắt đầu từ đâu”, thay vào đó học sinh biết mình đang làm gì và làm như thế nào. Vì số điểm của câu NLXH không phải là cao 2,0 điểm nên học sinh cần tranh thủ thời gian để dành dung lượng cho câu NLVH. 15 Quan sát phần bài làm của học sinh trường THPT Nga Sơn, chúng ta thấy không phải bài làm nào cũng tốt, cũng đáp ứng yêu cầu cần và đủ của bài văn song dường như tính logic của tư duy khoa học khi triển khai một vấn đề đã được sắp xếp, bộc lộ khá rõ nét. Cá biệt có bài làm chưa hoàn chỉnh về dung lượng, cách dùng từ, diễn đạt cũng còn nhiều sai sót nhưng thứ tự các bước lại tương đối hợp lí. Điều này cho thấy khi chúng ta ý thức và định lượng rõ ràng về công việc phải làm thì mỗi người hoàn toàn đánh giá được kết quả công việc. Người viết đề tài đã triển khai vấn đề này trong tổ chuyên môn như một nội dung sinh hoạt thiết thực, ý nghĩa và nhận được những phản hồi tích cực. Vấn đề là phương pháp đã có song cần thường xuyên yêu cầu học sinh thực hành thì hiểu biết mới chuyển thành kĩ năng thực sự. Đây chính là mấu chốt của việc học nói chung và rèn kĩ năng luyện đề NLXH nói riêng. 3. Kết luận, kiến nghị Kết luận Đề tài này đã được ứng dụng hiệu quả trong thực tế dạy và học của giáo viên và học sinh nhà trường. Song song với đó là những bài học kinh nghiệm đã được rút ra. Làm việc gì cũng cần có hiểu biết cặn kẽ và phương pháp khoa học. Hiểu biết và phương pháp sẽ chỉ có ý nghĩa khi được vận dụng trong quá trình thực hành theo nguyên tắc “học đi đôi với hành”; khi thực hành nhiều sẽ chuyển thành kĩ năng, khi có kĩ năng việc viết bài sẽ trở nên đơn giản và nhanh chóng. Chúng ta không có tham vọng mọi học sinh đều sẽ đạt điểm cao ở tất cả các phần trong bài và các môn thi,đó là điều phi lí, phi khoa học. Nhưng qua việc học, ôn thi, luyện đề, giáo viên sẽ giúp học sinh nhận ra những bài học bổ ích trong học tập và cuộc sống như chúng ta luôn phải đấu tranh nỗ lực để vượt qua chính mình, chiến thắng và khẳng định bản thân, cần có kĩ năng để thích nghi với sự thay đổi, khác biệt, biết cách chấp nhận. Dạy và học luôn là quá trình chia sẻ với rất nhiều mối quan hệ giáo viên với giáo viên, giáo viên với học sinh, học sinh với học sinh. Khi có sự chia sẻ, 16 chúng ta sẽ có sức mạnh chung, niềm vui chung; biến quá trình giáo dục thành tự giáo dục. Kiến nghị Mỗi SKKN luôn là kinh nghiệm, là tư duy, là thực tiễn sống động, là bài học quý mà mỗi người dạy học đã rút ra, “trải nghiệm” sâu sắc với mục đích góp phần làm cho quá trình dạy và học trở nên thú vị, nhẹ nhàng, khoa học hơn. Đề tài đã được tác giả tâm huyết nghiên cứu, đầu tư kĩ lưỡng cả về chất lượng, nội dung và hình thức, rất mong hội đồng KH nghành xét duyệt và phổ biến rộng rãi giúp giáo viên và học sinh có thêm tài liệu bổ ích để giảng dạy và học tập. Bài viết chắc không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong các bạn đồng nghiệp bổ sung góp ý để bài viết được hoàn thiện hơn, cũng như ứng dụng vào việc dạy học cho học sinh lớp mình giảng dạy, đem lại cho học sinh những bài giảng hay hơn, cuốn hút hơn. XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thanh Hóa, ngày 04 tháng 7 năm 2020 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Ký và ghi rõ họ tên Nguyễn Thị Hồng 17
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội khoảng 200 từ cho học sinh lớp 9", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên1. MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài Văn nghị luận, nhất là nghị luận xã hội chính là tinh hoa của các môn khoa học xã hội. Biết nghị luận là con người biết phán đoán và suy luận, có tư duy logic để trình bày và bảo vệ quan điểm của mình; đồng thời biết phản bác những quan điểm, nhận thức sai lệch một cách thuyết phục. Rõ ràng việc thể hiện, tranh luận và bảo vệ hay bác bỏ các quan điểm là một thước đo quan trọng đối với sự trưởng thành của mỗi con những năm gần đây kiểu văn nghị luận xã hội đã được chú trọng trong các nhà trường trung học. Trước hết văn nghị luận xã hội có vai trò to lớn thúc đẩy nhận thức của học sinh về các vấn đề xã hội, từ hiểu biết, nhận thức đúng đắn đó giúp các em có những hành động chuẩn mực trong ứng xử của cuộc sống. Văn nghị luận trau dồi cho các em sự phát triển lành mạnh về tâm hồn, định hướng những hành vi chuẩn mực, phù hợp đạo đức lối sống của người Việt Nam ta. Bởi vậy văn nghị luận đã trở thành tiêu chí đánh giá đối với học sinh không chỉ trong những bài kiểm tra, thi học sinh giỏi, thi vào lớp 10 và ngay cả thi tốt nghiệp THPT rồi đến kì thi Đại học. Đây là một quy định đối trong khung đề kiểm tra hoặc đề thi. Sự chuyển biến này là cơ hội và cũng là thách thức đối với học sinh. Một thời gian khá dài, làm văn trong nhà trường chỉ tập trung vào nghị luận văn học khiến cho học sinh cảm thấy văn chương xa rời thực tế cuộc sống. Rèn luyện văn nghị luận xã hội giúp học sinh không chỉ hoàn thiện kĩ năng trình bày quan điểm của mình, mà còn cung cấp tri thức vô cùng phong phú về những vấn đề xã hội. Thế nhưng thách thức đặt ra đối với học sinh và giáo viên cũng không phải là nhỏ. Học sinh quá quen với tư duy văn học, kiến thức về xã hội còn hạn chế, tài liệu tham khảo nghị luận xã hội không nhiều, kĩ năng làm bài chưa thuần thục, nhận diện vấn đề chưa tốt, người viết lại phải dùng kiến thức của mình để giải quyết về một vấn đề trong cuộc sống chứ không phải cố định ở một văn bản trong sách giáo khoa... Tất cả những điều đó tạo nên áp lực, gây khó khăn cho học sinh. Như vậy, rèn luyện kĩ năng NLXH cho học sinh sẽ không chỉ nhằm kiểm tra kiến thức tổng hợp về mọi mặt đời sống của học sinh, mà còn nhằm phát triển khả năng tư duy nhận thức vấn đề xã hội đồng thời góp phần rèn giũa, bồi dưỡng phẩm chất nhân cách con người cho các em học sinh. Qua một số giờ dự giờ lên lớp và bản thân tôi trực tiếp ra đề và chấm bài cho học sinh, tôi đã quyết định chọn nghiên cứu đề tài “Rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội khoảng 200 từ cho học sinh lớp 9”. Nhằm trao đổi với đồng nghiệp một vài kinh nghiệm, qua đó giúp cho học sinh lớp 9 nắm vững hơn phương pháp làm kiểu bài này, với mong muốn nâng cao chất lượng bài thi, bài kiểm tra và kết quả học tập của các em, đặc biệt là từ đó, giúp cho các em học sinh phát triển khả năng tư duy và nhận thức đúng đắn để hoàn thiện nhân cách của bản thân. Mục đích nghiên cứu Trong những năm qua, bản thân tôi luôn được phân công giảng dạy môn Ngữ văn 9, tôi luôn có ý thức trong việc giảng dạy, đặc biệt đã chú trọng rèn luyện cho học sinh kĩ năng làm bài nghị luận nói chung và bài văn nghị luận xã hội nói riêng, vì đây là một thể loại đang được xem là mới và khó. Nhất là trong cấu trúc đề thi do Sở giáo dục quy định mới nhất năm 2018, quy định tất cả các bài làm của học sinh từ hai tiết trở lên, đến các bài thi học sinh giỏi, đề thi vào lớp 10 đều có văn nghị luận xã hội, dưới dạng một đoạn văn khoảng 200 từ, khác với dạng viết bài văn nghị luận ngắn như trước đây. Từ bài văn ngắn nay yêu cầu chỉ còn đoạn văn, vậy học sinh sẽ làm bài thế nào cho phù hợp với yêu cầu của đề ? Đề tài nghiên cứu của tôi nhằm giúp học sinh biết cách trình bày đoạn văn nghị luận khoảng 200 từ Đối tượng nghiên cứu Xuất phát từ tầm quan trọng và thực trạng của việc làm bài nghị luận xã hội ở trường THCS hiện nay, để tạo tiền đề cho việc học và làm văn của các em ở các bậc học tiếp theo, Nhằm trao đổi với đồng nghiệp một vài kinh nghiệm, qua đó giúp cho học sinh lớp 9 nắm vững hơn phương pháp làm kiểu bài này, với mong muốn nâng cao chất lượng bài thi, bài kiểm tra và kết quả học tập của các em. Phương pháp pháp nghiên cứu Để giải quyết nhiệm vụ mà đề tài đặt ra, tôi sử dụng một số phương pháp như phân tích, khảo sát, nêu ví dụ, so sánh... 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Cở sở lí luận. Như chúng ta đã biết trong cấu trúc đề thi cấp huyện, cấp tỉnh, hay thi vào THPT môn Ngữ văn những năm hiện nay đều có câu hỏi, yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức xã hội và đời sống để viết đoạn văn nghị luận xã hội ngắn khoảng 200 từ khoảng 20 đến 25 dòng. Trước đây là một bài văn nghị luận xã hội ngắn khoảng 300 từ. Căn cứ vào ngữ liệu mở của phần Đọc hiểu, yêu cầu viết đoạn văn, dù hỏi thế nào thì cũng chỉ quy về hai dạng bài. Cụ thể là - Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí. - Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống. Học sinh phải biết bám sát vào quy định trên để định hướng ôn tập và làm bài thi cho hiệu quả. Ở kiểu bài nghị luận xã hội, học sinh qua những trải nghiệm của bản thân, trình bày những hiểu biết, ý kiến, quan niệm, cách đánh giá, thái độ...của mình về các vấn đề xã hội, từ đó rút ra được bài học nhận thức và hành động cho bản thân. Để làm tốt khâu này, học sinh không chỉ biết vận dụng những thao tác cơ bản của bài văn nghị luận như giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, so sánh, bác bỏ... mà còn phải biết trang bị cho mình kiến thức về đời sống xã hội . Khi viết đoạn văn nghị luận xã hội nhất thiết phải có dẫn chứng thực tế. Cần tránh tình trạng hoặc không có dẫn chứng hoặc lạm dụng dẫn chứng mà bỏ qua các bước đi khác của quá trình lập luận. Mặt khác với kiểu bài nghị luận xã hội, học sinh cần làm rõ vấn đề nghị luận, sau đó mới đi vào đánh giá, bình luận, rút ra bài học cho bản thân. Thực tế cho thấy nhiều học sinh mới chỉ dừng lại ở việc làm rõ vấn đề nghị luận mà coi nhẹ khâu thứ hai, vẫn coi là phần trọng tâm của bài nghị luận...Vì những yêu cầu trên mà việc rèn luyện giúp cho học sinh có kĩ năng làm tốt một đoạn văn nghị luận xã hội là một việc làm rất cần thiết. Thực trạng vấn đề. - Thực trạng chung Trong chương trình Ngữ văn THCS, đọc văn luôn gắn liền với làm văn tạo nên hai mặt hữu cơ thống nhất. Song nhìn tổng quan, phân môn đọc văn có vẻ được ưu ái hơn so với làm văn. Làm văn có số tiết không nhiều nhưng lại bao gồm cả hai mảng lí thuyết và thực hành, và luôn hướng đến rèn luyện kĩ năng nghị luận văn học song song với nghị luận xã hội. Như vậy thời lượng dành cho rèn luyện kĩ năng nghị luận xã hội trong chương trình lớp 9 còn khá khiêm tốn.chỉ có 4 tiết học. Những kì thi quan trọng trong đời học sinh từ thi học kì, thi học sinh giỏi đến thi THPT quốc gia... đều có bài nghị luận xã hội. Và quan trọng hơn là nghị luận xã hội tuy chiếm tỉ trọng điểm thấp hơn trong các kì thi phổ thông, nhưng lại rất cần thiết với cuộc đời của mỗi con người. Văn nghị luận, nhất là nghị luận xã hội chính là tinh hoa của các môn khoa học xã hội. Biết nghị luận là con người biết phán đoán và suy luận, có tư duy logic để trình bày và bảo vệ quan điểm của mình; đồng thời biết phản bác những quan điểm, nhận thức sai lệch một cách thuyết phục. Rõ ràng việc thể hiện, tranh luận và bảo vệ hay bác bỏ các quan điểm là một thước đo quan trọng đối với sự trưởng thành của mỗi con người. Như vậy, rèn luyện kĩ năng nghị luận xã hội cho học sinh sẽ không chỉ nhằm kiểm tra kiến thức tổng hợp về mọi mặt đời sống của học sinh mà còn nhằm phát triển khả năng tư duy và phẩm chất nhân cách con người. Nghị luận xã hội quan trọng như thế nhưng trong trong thực tế, việc rèn luyện kĩ năng nghị luận xã hội cho học sinh vẫn chưa tương xứng với tầm của nó. Những tác giả nghiên cứu sâu về làm văn lại thiên về lí thuyết, hàn lâm; những giáo viên gần với thực tiễn làm văn của học sinh lại thiếu sự khái quát, hệ thống về những vướng mắc, những lỗi kĩ năng thường gặp của học sinh. Vì vậy cần có những tìm hiểu sâu hơn về thực trạng và những lỗi học sinh thường mắc khi làm bài văn nghị luận xã hội. Từ đó đưa ra những định hướng, chỉ dẫn để học sinh biết cách nghị luận xã hội thiết thực, hiệu quả hơn trong những kì thi trước mắt và trong cuộc đời lâu dài về sau. - Thực trạng riêng Thực trạng học và làm bài văn nghị luận nghị luận xã hội đang là một vấn đề được quan tâm trong các trường Trung học cơ sở nói chung và trường THCS Lê Hữu Lập nói riêng. Theo thống kê và theo dõi kết quả thi học, kì, thi học sinh giỏi, thi vào THPT của mấy năm gần đây thì chất lượng làm bài môn Ngữ văn của học sinh đã có sự tiến bộ rõ rệt. Tuy nhiên phần điểm bị trừ trong bài lại rơi vào phần văn nghị luận xã hội. Nguyên nhân chính là do cách diễn đạt của các em chưa được tốt. Các ý còn chung chung, chưa cụ thể và rõ ràng, kiểu nghị luận này yêu cầu học sinh phải vận dụng kiến thức thực tế thì các em lại chưa có. Nhiều em còn mắc các lỗi về dùng từ, diễn đạt...có em còn xác định sai đề, dẫn đến sai kiến thức cơ bản do suy diễn cảm tính, suy luận chủ quan hoặc tái hiện quá máy móc dập khuôn trong tài liệu, thậm chí có chỗ “râu ông nọ cắm cằm bà kia” nhầm nghị luận về tư tưởng đạo lí sang nghị luận về sự việc hiện tượng đời sống... Sở dĩ chất lượng phần văn nghị luận xã hội còn chưa đạt yêu cầu như vậy là do nhiều nguyên nhân. - Về giáo viên Mặc dù trong những năm gần đây, hầu hết giáo viên đã nắm chắc được cấu trúc của các đề thi học sinh giỏi và thi vào lớp 10, một phần không thể thiếu là câu hỏi liên quan đến kiểu bài nghị luận xã hội, thế nhưng một số giáo viên vẫn cho rằng câu hỏi chỉ chiếm tỉ lệ điểm trong bài khoảng 20% số điểm nên chưa tập trung nhiều để hướng dẫn học sinh, khiến kiến thức cơ bản học sinh nắm chàng màng. Tư tưởng học sinh làm bài lại chỉ chăm chú đến phần nghị luận văn học mà không nghĩ rằng đây là phần dễ đạt điểm tối đa. Hơn nữa lâu nay có khá nhiều học sinh và ngay cả thầy cô cứ nghĩ rằng văn hay là câu chữ phải “bay bổng”, phải “lung linh”, nghĩa là dùng cho nhiều phép tu từ, nhiều từ “sang”, nhiều thuật ngữ “oách” mà quên rằng văn hay là sự chân thực, sự giản dị, tức là nói những điều mình nghĩ và nói bằng ngôn ngữ bình thường, không cao giọng, không uốn éo làm duyên. - Về học sinh. Trong những năm gần đây học sinh không hứng thú muốn học môn Ngữ văn, nhất là ngại viết những bài văn hay đoạn văn dài. Có lẽ ngoài nguyên nhân khách quan từ xã hội, thì một phần cũng do làm văn khó, lại mất nhiều thời gian, “công thức” làm văn cho các em lại không hình thành cụ thể. Các em không phân biệt rõ các thao tác nghị luận chính mà mình sử dụng. Kĩ năng tạo lập văn bản của học sinh ở ngay trong trường THCS Lê Hữu Lập còn nhiều em làm chưa tốt và rất hiếm có những bài nghị luận có được sức hấp dẫn, thuyết phục bởi cách lập luận rõ ràng, chính xác, đầy đủ và chặt chẽ từng luận điểm, luận cứ... Bài viết của các em khi thì sai về yêu cầu thao tác nghị luận, khi lại không sát, không đúng với nội dung nghị luận của đề bài. Ví dụ đề yêu cầu nghị luận về tư tưởng đạo lí lại làm sang nghị luận về hiện tượng sự việc đời sống. Mặt khác đối với đoạn văn nghị luận xã hội dung lượng quy định chỉ khoảng 200 hoặc gần một trang giấy thi nhiều học sinh vẫn chưa căn được, cứ thế phóng bút viết thậm chí hết nhiều thời gian mà bài lại không cô đọng, súc tích. Một điều nữa mà ta dễ dàng nhận thấy khi dạy kiểu bài này các em đều quan niệm là bài văn “khô khan” nên bài viết chưa có sức hút, chưa lay động được tâm hồn người đọc. Ở bất cứ thể văn nào, khô khan hay hấp hẫn là ở chất lượng. Mà chất lượng một bài văn phụ thuộc vào cảm hứng, kiến thức và các yếu tố có tính kĩ thuật như Cách lập luận, dùng từ, câu... Kết quả khảo sát học sinh khi chưa áp dụng đề tài này vào thực tế giảng dạy như sau Năm học 2017-20178 Lớp Sĩ số Số HS có bài dưới điểm 5 1-> 4điểm Số HS biết cách làm bài ở mức trung bình-khá 5->7điểm Số HS làm bài tốt 8-9 điểm SL % SL % SL % 9B 35 4 11,4 25 71,4 6 17,1 Kết quả trên đây cho thấy nguyên nhân mấu chốt là học sinh phần nhiều chưa biết làm văn nghị luận tốt. Vậy nên việc nâng cao, mở rộng, rèn thêm cho học sinh kĩ năng làm văn nghị luận xã hội là rất cần thiết. Giải pháp và biện pháp thực hiện Các giải pháp thực hiện Để học sinh có kĩ năng viết đoạn nghị luận xã hội tốt. Tôi thực hiện các bước sau a, Làm công tác tư tưởng cho học sinh định hướng Trước hết giáo viên cần phải dập tắt trong các em quan niệm Văn nghị luận là loại văn “khô khan” là chưa hợp lí, vì ở bất cứ thể văn nào, khô khan hay hấp dẫn là ở chất lượng. Tiểu thuyết mà viết dở thì cũng khô khan mà thôi. Chất lượng một bài văn nghị luận phụ thuộc vào cảm hứng, kiến thức và các yếu tố có tính kĩ thuật như cách lập luận, dùng từ, câu....Cảm hứng là yếu tố đầu tiên. Sau là phải có kiến thức Có thể việc hiểu biết về vấn đề cần bàn càng phong phú thì càng dễ cho mình “tung hoành” trong bài viết. Kiến thức phong phú cũng có nghĩa là mình nắm được lẽ phải, giúp cho mình đưa ra những luận điểm chắc chắn, giàu sức thuyết phục, không thể bác bỏ như cố nhân đã tổng kết “Nói phải củ cải cũng nghe”. Trái lại nếu kiến thức nghèo nàn hay sáo rỗng thì bài văn nhạt nhẽo, nặng nề, hô khẩu hiệu. Cần nhớ rằng văn nghị luận là làm sao để người khác “Tâm phục khẩu phục” chứ không phải áp đặt cách hiểu của mình cho người khác. Khi kiến thức đã phong phú thì các yếu tố kĩ thuật của văn bản, về cơ bản sẽ biết sử dụng một cách tự nhiên. Bởi vì một triết gia đã nói “Cái gì được quan niệm rõ ràng thì diễn đạt sẽ mạch lạc”. Việc trau dồi và cẩn trọng trong công tác kĩ thuật thì không bao giờ thừa. Luôn luôn phải cân nhắc, sắp xếp cái nào trước, cái nào sau, chọn đi chọn lại từ nào cho chuẩn xác, sinh động. b, Củng cố và khắc sâu kiến thức chung về yêu cầu trình bày hình thức một đoạn văn - Trình bày đúng hình thức một đoạn văn đầu đoạn viết lùi vào, viết hoa, có dấu chấm hết đoạn, tránh nhầm sang trình bày hình thức một bài văn - Đảm bảo dung lượng đoạn văn 200 chữ. - Đảm bảo bố cục mở đoạn, thân đoạn, kết đoạn. - Học sinh nên trình bày theo hình thức diễn dịch hoặc quy nạp c, Củng cố và khắc sâu kiến thức lí thuyết về văn nghị luận xã hội. Về kiểu bài nghị luận xã hội, Bộ giáo dục và Đào tạo đã quy định trong cấu trúc đề thi năm 2018. Theo đó, học sinh phải vận dụng kiến thức xã hội và đời sống viết đoạn văn nghị luận xã hội khoảng 200 từ đối với học sinh THCS. Vì vậy muốn làm tốt kiểu bài này trước hết giáo viên cần hướng dẫn và yêu cầu học sinh nắm chắc phần lí thuyết thì mới vận dụng tốt trong khi làm bài. Ở phần I Đọc – Hiểu thường gồm có 4 câu hỏi nhỏ, chiếm tỷ lệ 30% số điểm. Từ dữ liệu ở phần I này sẽ là cơ sở để thực hiện một đoạn nghị luận xã hội ở phần II Phần Tập làm Văn, nhưng dù là bàn luận đến nội dung gì thì cũng chỉ có hai dạng bài cụ thể là + Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống. + Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí. Học sinh cần bám sát vào quy định trên để định hướng ôn tập và làm bài thi cho hiệu quả. Dạng bài 1 Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống. *Khái niệm Nghị luận về một sự việc, hiện tượng, đời sống xã hội là nêu ý kiến của mình, bàn luận, đánh giá của mình về sự việc, hiện tượng ấy. *Yêu cầu - Nội dung Phải trình bày rõ nội dung, bản chất của sự việc,hiện tượng, phải trình bày rõ thái độ, ý kiến của người viết về mặt sai, mặt đúng, mặt lợi, mặt hại của nó. - Hình thức Sự bàn luận, đánh giá phải có luận điểm rõ ràng, được trình bày bằng các luận cứ xác thực, bằng các phép lập luận phù hợp. - Lời văn có sức thuyết phục. * Bố cục Đoạn văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống cũng phải đảm bảo các phần chặt chẽ, mạch lạc theo yêu cầu chung của một đoạn văn nghị luận. - Mở đoạn Giới thiệu sự việc, hiện tượng có vấn đề sẽ bàn luận. - Thân đoạn Phân tích các mặt của sự việc, hiện tượng, trình bày ý kiến, sự đáng giá của mình. - Kết đoạn Khẳng định, phủ định, khái quát ý nghĩa của vấn đề nghị luận. Dạng bài 2 Nghị luận về một vấn đề về tư tưởng đạo lí. * Khái niệm Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí là bàn về một vấn đề thuộc lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống... có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống của con người. *Yêu cầu - Về nội dung Làm sáng tỏ các vấn đề tư tưởng đạo lí bằng cách giải thích, chứng minh, so sánh, đối chiếu, phân tích...để chỉ ra chỗ đúng hay chỗ sai của một tư tưởng nào đó nhằm khẳng định tư tưởng của người viết. - Về hình thức Đoạn văn phải có bố cục 3 phần rõ ràng, luận điểm đúng đắn, lập luận chặt chẽ, mạch lạc. - Lời văn Rõ ràng, sinh động. * Bố cục Có bố cục chặt chẽ, hợp lí theo yêu cầu chung của một đoạn văn nghị luận. - Mở đoạn Giới thiệu vấn đề tư tưởng, đạo lí cần bàn luận. - Thân đoạn Lần lượt giải thích, chứng minh, phân tích các nội dung của vấn đề tư tưởng, đạo lí đó; đồng thời nêu ý kiến bàn luận, đánh giá của mình. - Kết đoạn Tổng kết, nêu ý nghĩa, bài học của vấn đề nghị luận. Lưu ý Khắc sâu để học sinh nắm được kiến thức của từng kiểu bài là hết sức quan trọng để các em vận dụng tốt trong quá trình làm bài cụ thể. Tuy nhiên làm đoạn văn nghị luận xã hội giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh các lưu ý sau Thứ nhất Chú ý đọc kĩ đề bài, xác định dạng đề bài Thứ hai Tăng cường quan sát, cập nhật thông tin Thứ ba Chọn lọc và xử lí thông tin. Các biện pháp cụ thể a Hướng dẫn viết đoạn văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống Cuộc sống đang từng giờ, từng phút trôi qua cùng biết bao thay đổi và biết bao sự kiện. Có thể nói chính những sự việc, hiện tượng đời sống là mảng đề tài hết sức hấp dẫn, phong phú người ra đề lựa chọn các mảng đề tài khác nhau để ra đề như Môi trường, dân số, trẻ em, tệ nạn xã hội.... Để làm tốt dạng đề nghị luận xã hội về sự việc hiện tượng đời sống đang được dư luận xã hội quan tâm, giáo viên cần hướng dẫn học sinh lưu ý. *Làm bài nghị luận về sự việc đời sống. - Yêu cầu về hình thứcTrước đây là bài văn nghị luận nên yêu cầu học sinh trình bày đầy đủ bố cục của đoạn văn, nghĩa là đoạn văn gồm ba phần Mở đoạn, thân đoạn và kết đoạn. Nay yêu cầu chỉ là đoạn văn nên học sinh cần xác học sinh viết đoạn văn theo kiểu nào Diễn dịch, quy nạp hay tổng – phân – hợp. Học sinh nên viết theo kiểu đoạn văn tổng – phân – hợp là hợp lí nhất, chặt chẽ nhất. - Yêu cầu về nôi dung. + Nêu thực trạng của vấn đề. + Biểu hiện – phân tích tác hại. + Nguyên nhân. + Biện pháp khắc phục hướng giải quyết + Ý thức bản thân đối với vấn đề nghị luận. Ví dụ Với nhan đề Môi trường sống của chúng ta. Dựa vào những hiểu biết của em về môi trường, viết một đoạn văn ngắn trình bày quan niệm của em và cách làm cho cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn. Nêu vấn đề và triển khai thành đoạn văn nghị luận bao gồm các ý cơ bản sau đoạn Nêu vấn đề nghị luận Môi trường sống của chúng ta thực tế đang bị ô nhiễm và con người chưa có ý thức bảo vệ. đoạn - Biểu hiện. + Xã hội. + Nhà trường. - Phân tích tác hại + Ô nhiễm môi trường làm hại đến sự sống. + Ô nhiễm môi trường làm cảnh quan bị ảnh hưởng. - Đánh giá - Những việc làm đó là thiếu ý thức bảo vệ môi trường, phá hủy môi trường sống tốt đẹp. - Phê phán và cần có cách xử phạt nghiêm khắc. - Hướng giải quyết. - Tuyên truyền để mỗi người tự rèn cho mình ý thức bảo vệ môi trường. - Coi đó là vấn đề cấp bách của toàn xã hội. đoạn Khẳng định lại vai trò của môi trường. *Nghị luận về một hiện tượng đời sống. - Yêu cầu về hình thức Đảm bảo bố cục đoạn văn, diễn đạt có cảm xúc. - Yêu cầu về nội dung cần đảm bảo các ý sau + Giải thích hiện tượng. + Trình bày suy nghĩ của người viết về hiện tượng ấy. + Liên hệ thực tế đời sống. + Nêu tác dụng ảnh hưởng và bài học rút ra. Ví dụ Đề bài “Giữa một vùng sỏi đá khô cằn, có những loài cây vẫn mọc lên và nở những chùm hoa thật đẹp”. Viết một một đoạni văn nghị luận Khoảng 200 từ nêu suy nghĩ của em được gợi ra từ hiện tượng trên. Gợi ý. Với dạng bài này giáo viên có thể hướng dẫn học sinh lập theo ý. *Về hình thức Trình bày thành đoạn văn nghị luận , yêu
CHUYÊN ĐỀ KỸ NĂNG VIẾT MỞ BÀI TRONG VĂN NGHỊ LUẬN Nhà văn Nga Macxim Gorki đã từng nói “ Khó hơn cả là phần mở đầu, cụ thể là câu đầu, cũng như trong âm nhạc, nó chi phối giọng điệu của tác phẩm và người ta thường tìm nó rất lâu”. Với yêu cầu đặt ra của việc viết đoạn mở bài một cách nhanh chóng, đảm bảo các yêu cầu chức năng của nó làm cho không ít học sinh cảm thấy khó khăn. * Mục đích Mục đích của mở bài là giới thiệu về vấn đề mà mình sẽ viết, thực chất là trả lời câu hỏi Ở bài viết này, mình định viết về điều gì? * Yêu cầu – Ngắn gọn Phần mở bài quá dài dòng không những khiến học sinh mất thời gian mà còn khiến các em bị cạn kiệt ý tưởng cho phần thân bài. Trong phần này chỉ nên hé mở những gì mình định viết ở phần thân bài. – Đầy đủ Phần mở bài phải nêu được vấn đề cần nghị luận, phạm vi tư liệu, thao tác nghị luận chính. – Độc đáo Phần mở bài phải gây được sự chú ý cho người đọc về vấn đề cần nghị luận bằng cách nêu hoặc có những liên tưởng khác lạ, bất ngờ cho người đọc. Bạn sẽ dễ chiếm cảm tình của người đọc bằng cách này nhất, bởi nó làm bạn nổi bật giữa hàng trăm bài văn khác. – Tự nhiên Phần mở bài cũng chỉ nên dùng các ngôn từ giản dị, mộc mạc, tránh sáo rỗng, tránh gượng ép. Bởi điều này sẽ gây cho người đọc cảm giác mơ hồ, khó chịu về sự giả tạo. – Tránh lạc đề Nên nhớ đây là bài thi, nếu phần mở bài của bạn lạc đề thì không những mất điểm mà còn mất luôn cảm tình của người chấm! Cấu trúc của một mở bài Cấu trúc của một mở bài gồm 4 nội dung chính – Dẫn dắt vấn đề Nêu một vài ý liên quan đến luận đề cần bàn, chuẩn bị tư tưởng dẫn dắt người đọc, người nghe vào nội dung bàn luận hay tình huống có vấn đề đặt ra ở đề bài. Điều quan trọng ở phần này là tạo được sự hấp dẫn, thu hút người đọc. VD Liên hệ bông hoa → ong bướm. – Nêu vấn đề Nêu vấn đề một cách ngắn gọn, khái quát và chính xác. Vấn đề mà mở bài nêu ra chính là vấn đề mà nội dung bài viết đề cập tới. – Nêu giới hạn vấn đề Nêu được phạm vi bàn luận trong khuôn khổ tư liệu nào 1 đề tài, 1 tác phẩm hay nhiều tác phẩm… – Nêu thao tác nghị luân chính của bài Phân tích, bình luận, chứng minh, giải thích… – Ngoài 4 nội dung chính vừa nêu trên, cấu trúc của một mở bài có thể có thêm một nội dung phụ, đó là Nêu nhận định về tầm quan trọng của vấn đề, ý nghĩa của vấn đề đối với cuộc sống, xã hội, dòng văn học; với trước đó và đương thời… phần này không nhất thiết phải có, tuỳ thuộc vào từng vấn đề cụ thể. Cách xác định vấn đề Bằng cách đặt và trả lời cho câu hỏi Bài làm cần viết về cái gì? Từ đó xác định trọng tâm kiến thức cần nêu. Hãy dùng bút tô đậm những từ chìa khóa trong đề ra và lấy đó làm từ trọng điểm cho phần mở bài của mình. Xác định vấn đề bàn luận là điều căn bản cốt yếu nhất vì nếu xác định sai thì coi như toàn bộ nội dung bài viết sẽ chệch hướng hoàn toàn, như vậy nghĩa là lạc đề. Muốn xác định được vấn đề thì phải tìm hiểu kỹ đề bài. Thông thường đề bài có hai dạng * Dạng nổi Lộ thiên Dạng nổi là dạng đề mà các yêu cầu về nội dung, hình thức, cách thức, phương hướng, phạm vi, mức độ nghị luận được nêu ra trực tiếp và rõ ràng trong đề bài. Ở đề bài này vấn đề cần bàn luận đã có sẵn. Ví dụ 1 Vai trò của biển với đời sống nhân loại. Vấn đề trọng tâm đã được nói rõ ở đề bài đó là khẳng định vai trò quan trọng của biển đối với sự tồn tại và phát triển của nhân loại. Ví dụ 2 Tình yêu với biển đảo quê hương của thanh niên Việt Nam. Vấn đề cần tìm đã rất rõ ràng, đó là tình yêu biển đảo của thanh niên Việt Nam. Lưu ý Nhiều khi đề có đoạn dẫn rất dài, hãy chú ý đọc kỹ để tìm vấn đề được chỉ rõ ngay trong đề. Ở những trường hợp này nhiều đề bài sau khi nêu nội dung đoạn trích thơ, văn hoặc nhận định thường có yêu cầu thí sinh phải làm rõ điều gì đó. Đấy chính là vấn đề cần lý giải. Ví dụ Hãy phân tích đoạn Mỵ ở nhà thống lý Pá Tra để thấy được nỗi đau và sức sống tiềm tàng của người phụ nữ mèo vùng Tây bắc. Vấn đề đã rất rõ Thể loại phân tích vấn đề để nêu bật 2 nội dung đề yêu cầu Nỗi đau khổ và sức sống tiềm tàng của nhân vật Mỵ. * Dạng chìm Dạng chìm là dạng đề trong đó người ra đề không cho dữ kiện rõ về các yêu cầu của nội dung cũng như cách thức, phạm vi… nghị luận. Bởi thế người viết phải phân tích, tổng hợp, khái quát nội dung vấn đề từ chính nội dung của đoạn văn, đoạn thơ, hoặc tác phẩm, câu trích… Ví dụ Biển đảo quê hương hôm nay với thanh niên Việt Nam. Đề bài đưa ra một vấn đề “nóng” hiện nay, để làm rõ vấn đề cần có suy nghĩ Biển đảo quê hương hôm nay có vấn đề gì? Vì sao phải đặt vấn đề đó hôm nay? Trách nhiệm của thanh niên với biển đảo… Chú ý Học sinh khi đọc đề cần xác định thật rõ ràng những yêu cầu của đề theo hướng – Về nội dung, cần xem yêu cầu vấn đề cần nghị luận có giới hạn ở đâu? Giai đoạn nào? Tác phẩm hay đoạn nào? Đề tài gì? Chủ đề gì? – Về hình thức, cần quan tâm đến kiểu bài mà đề yêu cầu Phân tích, bình luận, bình giảng… hay đi kèm 2 kiểu bài hoặc tổng hợp các kiểu? Các cách mở bài – Mở bài trực tiếp có hai cách Mở thẳng vấn đề và mở trực tiếp có thêm phần dẫn dắt thời gian, không gian và hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm. – Mở bài gián tiếp Mở bằng câu chuyện, mở bằng cách nêu câu hỏi, mở bằng cách nêu sự kiện, con số…. GS Nguyễn Đăng Mạnh tổng kết “Các cách mở bài khác nhau chủ yếu ở phần dẫn dắt. Phần nêu vấn đề và phần giới hạn vấn đề thường không thay đổi, viết mở bài theo kiểu gì thì ai cũng phải nêu được phần này. Nói gọn lại cứ thay đổi phần dẫn dắt ta sẽ có một mở bài mới”. Một số mẫu mở bài ứng dụng từ thực tế Đặt vấn đề mở bài trực tiếp – trực khởi * Mở thẳng vấn đề – Dẫn dắt ngắn gọn bằng câu văn liên quan trực tiếp tới vấn đề. – Nêu rõ vấn đề định bàn luận. – Nêu giới hạn vấn đề. Ví dụ Phân tích nhân vật Mỵ trong “Vợ chồng A phủ ” của Tô Hoài. Mở bài Mỵ là nhân vật trung tâm trong tác phẩm “Vợ chồng A phủ ” 1. Hình ảnh Mỵ là hình ảnh của người phụ nữ Mèo đầy bi kịch trong xã hội thực dân phong kiến miền núi, nhưng đồng thời trong Mỵ tiềm ẩn sức sống mạnh mẽ vươn dậy làm chủ số phận của mình, đặc biệt khi gặp ánh sáng Đảng soi đường 2. Để thấy rõ điều này chúng ta cùng đi vào phân tích nhân vật Mỵ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài 3. Phân tích Bài làm trên thực hiện giới thiệu luôn vấn đề Mỵ là nhân vật trung tâm trong câu 1 và xác định giới hạn nghị luận đó là bi kịch và sức sống tiềm tàng của Mỵ câu 2, phạm vi tư liệu và thao tác nghị luân chính trong bài viết câu 3. * Mở trực tiếp có thêm phần dẫn dắt – Dẫn dắt bằng cách nêu bối cảnh làm vấn đề xuất hiện như thời gian, không gian, địa điểm xảy ra sự kiện liên quan đến tác phẩm/vấn đề; xuất xứ của tác phẩm văn học…. – Nêu rõ vấn đề định bàn luận. – Nêu giới hạn vấn đề. Ví dụ, với đề bài trên ta thêm câu dẫn để thành MB mới như sau Một trong những thành công của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” là nghệ thuật xây dựng nhân vật, trong đó tiêu biểu là nhân vật người phụ nữ miền núi. Mỵ là nhân vật trung tâm trong tác phẩm “Vợ chồng A phủ ”. Hình ảnh Mỵ là hình ảnh của người phụ nữ Mèo với số phận đầy bi kịch trong xã hội thực dân phong kiến miền núi, nhưng đồng thời trong Mỵ cũng tiềm ẩn sức sống mạnh mạnh mẽ vươn dậy làm chủ số phận của mình, đặc biệt khi gặp ánh sáng Đảng soi đường. Để thấy rõ điều này chúng ta cùng đi vào phân tích nhân vật Mỵ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài. * Ưu điểm và hạn chế của cách mở bài này – Ưu điểm + Đi thẳng ngay vào bài nên tránh được sự lan man, xa đề hoặc lạc đề. + Dễ vận dụng đối với các học sinh có kỹ năng lập luận yếu. +Tiết kiệm được thời gian suy nghĩ cho người viết. – Hạn chế Ít tạo được ấn tượng lôi cuốn người đọc. Đặt vấn đề mở bài theo cách gián tiếp – lung khởi Theo kết luận của GS Nguyễn Đăng Mạnh, có thể rút ra kết luận bản chất của một mở bài hay hoặc không hay theo lối viết mở bài gián tiếp phụ thuộc hoàn toàn vào cách dẫn dắt. Và đây chính là những lời mở đầu sớm nhất của mở bài, nó thường gây khó khăn cho học sinh. Dưới đây chúng tôi trình bày một số cách mà học sinh dễ áp dụng và đạt hiệu quả cao. Học sinh chỉ việc sử dụng theo công thức 1 Đoạn dẫn + 2 Nêu vấn đề + 3 Giới hạn vấn đề + 4 Thao tác nghị luận chủ yếu + 5 Nhận định về tầm quan trọng của vấn đề, ý nghĩa. Lưu ý Sau đoạn dẫn thì 4 nội dung còn lại không nhất thiết phải xếp theo trình tự như đã nêu trên. 1 Đoạn dẫn mở bài theo tư liệu tác giả Yêu cầu Nêu tên tác giả, vị trí tác giả trong nền văn học hoặc phong cách, đề tài tiêu biểu, tác phẩm tiêu biểu. VD thêm đoạn dẫn vào ví dụ trên để có 1 mở bài gián tiếp theo cách 1. Tô Hoài là một tác giả văn học nổi tiếng từ trước cách mạng tháng 8 và đồng thời cũng là nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Trong số rất nhiều tác phẩm giá trị của ông có tập “Truyện Tây Bắc” mà trong đó ấn tượng nhất vẫn là “Vợ chồng A phủ”. Mỵ là nhân vật trung tâm trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ ”. Hình ảnh Mỵ là hình ảnh của người phụ nữ Mèo đầy bi kịch trong xã hội thực dân phong kiến miền núi, nhưng đồng thời trong Mỵ tiềm ẩn sức sống mạnh mạnh mẽ vươn dậy làm chủ số phận của mình, đặc biệt khi gặp ánh sáng Đảng soi đường. Để thấy rõ điều này chúng ta cùng đi vào phân tích nhân vật Mỵ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài. 2 Đoạn dẫn mở bài theo lối quy nạp Yêu cầu Tìm một vấn đề mang tính chất chân lý là tiền đề để khẳng định vẫn đề. VD thêm đoạn dẫn vào ví dụ trên để có 1 mở bài gián tiếp theo cách 2. Thời gian không ngừng trôi và bốn mùa luân chuyển. Con người chỉ xuất hiện một lần trong đời và cũng chỉ một lần ra đi mãi mãi vào cõi vĩnh hằng. Nhưng những gì là thơ, là văn, là nghệ thuật đích thực… thì vẫn còn mãi mãi với thời gian. “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài là một tác phẩm nghệ thuật như thế. Một trong những lý do làm cho tác phẩm sống mãi là nhà văn đã xây dựng thành công nhân vật Mỵ. Mỵ là nhân vật trung tâm trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Hình ảnh Mỵ là hình ảnh của người phụ nữ Mèo đầy bi kịch trong xã hội thực dân phong kiến miền núi, nhưng đồng thời trong Mỵ tiềm ẩn sức sống mạnh mạnh mẽ vươn dậy làm chủ số phận của mình, đặc biệt khi gặp ánh sáng Đảng soi đường. Để thấy rõ điều này chúng ta cùng đi vào phân tích nhân vật Mỵ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài. 3 Đoạn dẫn mở bài theo lối so sánh hai vấn đề tương tự Yêu cầu Tìm 1 vấn đề tương tự đề tài, chủ đề, hình ảnh , tác phẩm… làm cầu nối so sánh với vấn đề của đề bài để tạo đoạn dẫn. VD1 thêm đoạn dẫn vào ví dụ trên để có 1 mở bài gián tiếp theo cách 3. Khi đọc “Mùa lạc” của Nguyễn Khải ta gặp nhân vật Đào, cô gái có quá khứ đau thương nhưng đã trỗi dậy mạnh mẽ khi đón nhận cuộc sống mới và những con người mới. Nhưng đau thương hơn và sự vươn dậy quyết liệt hơn phải kể đến nhân vật Mỵ trong “Vợ chồng A phủ ” của nhà văn Tô Hoài. Mỵ là nhân vật trung tâm trong tác phẩm. Hình ảnh Mỵ là hình ảnh của người phụ nữ Mèo đầy bi kịch trong xã hội thực dân phong kiến miền núi, nhưng đồng thời trong Mỵ tiềm ẩn sức sống mạnh mẽ vươn dậy làm chủ số phận của mình, đặc biệt khi gặp ánh sáng Đảng soi đường. Để thấy rõ điều này chúng ta cùng đi vào phân tích nhân vật Mỵ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn. VD2 Đề ra Phân tích bi kịch của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao. Có thể mở bài như sau Viết về nỗi khốn cùng của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng có lẽ ít ai còn có thể vượt qua được “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan. Viết về sự lưu manh tha hóa của con người có lẽ khó còn ai có thể sánh ngang với Nguyên Hồng trong tiểu thuyết “Bỉ vỏ”. Nhưng phải đến khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trong trang sách của nhà văn Nam Cao người ta mới thấy hết được cái khốn cùng, cái lưu manh, cái bi kịch bất hạnh của con người. Bi kịch sinh ra làm người mà bị xã hội từ chối quyền làm người. 4 Đoạn dẫn mở bài theo lối so sánh hai vấn đề đối lập Yêu cầu Tìm 1 vấn đề đối lập tạo thế bắc cầu để giới thiệu vấn đề cần bàn. VD thêm đoạn dẫn vào ví dụ trên để có 1 mở bài gián tiếp theo cách 4. Chúng ta đã gặp không ít những số phận người phụ nữ bi thương trong các tác phẩm văn học Việt Nam, đó là một nàng Vũ Nương oan khuất, một nàng Kiều bi kịch, một Chị Dậu tủi hờn… Nhưng khi tiếp cận với dòng văn học cách mạng, vẫn những người phụ nữ ngày xưa ấy nay lại trỗi dậy mạnh mẽ đứng dậy làm chủ đời mình. Một trong những nữ nhân vật văn học tiêu biêu biểu là Mỵ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Nhà văn Tô Hoài. Mỵ là nhân vật trung tâm trong tác phẩm. Hình ảnh Mỵ là hình ảnh của người phụ nữ Mèo đầy bi kịch trong xã hội thực dân phong kiến miền núi, nhưng đồng thời trong Mỵ tiềm ẩn sức sống mạnh mạnh mẽ vươn dậy làm chủ số phận của mình, đặc biệt khi gặp ánh sáng Đảng soi đường. Để thấy rõ điều này chúng ta cùng đi vào phân tích nhân vật Mỵ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài. 5 Đoạn dẫn mở bài dựa vào lời đánh giá ấn tượng của một tác giả. Yêu cầu Lấy 1 đánh giá của một tác giả uy tín có nội dung trùng với vấn đề đã xác định làm điểm tựa để phát triển tiếp. VD thêm đoạn dẫn vào ví dụ trên để có 1 mở bài gián tiếp theo cách 5. Khi nhận định về nhân vật Mỵ, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử viết “Mỵ là linh hồn của truyện Vợ chồng A Phủ”. Mỵ là nhân vật trung tâm trong tác phẩm. Hình ảnh Mỵ là hình ảnh của người phụ nữ Mèo đầy bi kịch trong xã hội thực dân phong kiến miền núi, nhưng đồng thời trong Mỵ tiềm ẩn sức sống mạnh mẽ vươn dậy làm chủ số phận của mình, đặc biệt khi gặp ánh sáng Đảng soi đường. Để thấy rõ điều này chúng ta cùng đi vào phân tích nhân vật Mỵ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài. 6 Đoạn dẫn mở bài bằng cách dựa vào xuất xứ và những thông tin khác về tác phẩm Yêu cầu Lấy các thông tin liên quan đến vấn đề sau khi chọn lọc các chi tiết quan trọng, hấp dẫn, bố trí thành đoạn dẫn. VD thêm đoạn dẫn vào ví dụ trên để có 1 mở bài gián tiếp theo cách này. “Vợ chồng A Phủ” in trong tập truyện Tây Bắc 1954. Tập truyện được tặng giải nhất – Giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. Truyện viết về cuộc sống của người dân lao động vùng núi cao, dưới ách thống trị tàn bạo của bọn thực dân phong kiến miền núi. Nổi bật lên là hình tượng nhân vật Mỵ. Mỵ là nhân vật trung tâm trong tác phẩm. Hình ảnh Mỵ là hình ảnh của người phụ nữ Mèo đầy bi kịch trong xã hội thực dân phong kiến miền núi, nhưng đồng thời trong Mỵ tiềm ẩn sức sống mạnh mạnh mẽ vươn dậy làm chủ số phận của mình, đặc biệt khi gặp ánh sáng Đảng soi đường. Để thấy rõ điều này chúng ta cùng đi vào phân tích nhân vật Mỵ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài. 7 Đoạn dẫn mở bài bằng cách liên hệ thực tế Để viết được mở bài bằng cách này chúng ta cần quan sát những sự việc diễn ra trong thực tết cuộc sống rồi lấy đó làm phần dẫn dắt để mở bài. Ví dụ Bình luận về mối quan hệ giữa văn học nghệ thuật và hiện thực cuộc sống. Chứng minh bằng một số tác phẩm văn học. – Mở bài Có ai đó đã ví sáng tạo nghệ thuật như việc thả diều. Con diều dù có bay bổng bao nhiêu vẫn phải gắn với mặt đất bằng một sợi dây vững chắc. Ý tưởng ấy gợi cho ta nhiều suy nghĩ sâu sắc về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực cuộc sống. Hãy đến với một số tác phẩm văn học lớn, chúng ta sẽ thấy rõ mối quan hệ máu thịt này. 8 Đoạn dẫn mở bài bằng cách dẫn dắt từ một câu chuyện kể Cách mở bài này là từ một câu chuyện kể chúng ta dẫn dắt vào mở bài. Cũng ví dụ trên ta có mở bài như sau “Thần thoại Hy Lạp” còn để lại một câu chuyện đầy cảm động về chàng lực sĩ Ăngtê và đất mẹ. Thần Ăngtê sẽ bất khả chiến bại khi chân chàng gắn chặt vào lòng đất mẹ Gaia. Có thể ví mối quan hệ giữa văn học và hiện thực cuộc sống hệt như quan hệ giữa Ăngtê và đất mẹ vậy. Chưa tin ư, chúng ta cùng khám phá những tác phẩm văn học lớn để thấy rõ điều này. 9 Đoạn dẫn mở bài gắn với thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong cùng một giai đoạn lịch sử Ví dụ Thông qua đoạn một của đoạn trích “Đất Nước” trích trong Trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm, anh chị hãy phân tích cảm hứng riêng về đất nước của nhà thơ? Mở bài Cùng với Nguyễn Mỹ, Xuân Quỳnh, Lê Anh Xuân…, Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong khói lửa ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Nguyễn Khoa Điềm gắn bó sâu sắc với vùng Trị – Thiên, đặc biệt với thành phố Huế quê hương ông. Với những tác phẩm như tập thơ “Đất ngoại ô” và nhất là trường ca “Mặt đường khát vọng”, Nguyễn Khoa Điềm được coi là một nhà thơ giàu cảm xúc và đậm chất trí tuệ, biểu hiện tập trung những suy tư của người thanh niên trí thức nỗ lực đóng góp vào cuộc chiến đấu của dân tộc. Trường ca “Mặt đường khát vọng” được sáng tác vào mùa đông năm 1971 tại chiến trường Trị – Thiên và được in ở miền Bắc vào năm 1974. “Đất Nước” trích gần trọn chương V của trường ca thể hiện khá tập trung những cảm nhận sâu sắc mới mẻ về đất nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. 10 Đoạn dẫn mở bài xuất phát từ một sự kiện lịch sử Ví dụ 1 Phân tích bài thơ “Việt Bắc” để thấy tình nghĩa thủy chung với ngọn nguồn của cách mạng và của dân tộc qua lối hát giao duyên của dân ca? Mở bài Tháng 10 – 1954, cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi. Từ căn cứ địa cách mạng, Bác Hồ, Trung ương Đảng, Chính phủ trở về Hà Nội. Đáp lại ân tình của đồng bào Việt Bắc đã chở che, đùm bọc cho cách mạng, nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc” theo lối hát giao duyên của dân ca để nói lên tình nghĩa thủy chung của nhân dân ta với ngọn nguồn của cách mạng, của dân tộc. Ví dụ 2 Phân tích vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của các nhân vật Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân? Mở bài Nạn đói khủng khiếp dữ dội năm 1945 hằn in trong tâm trí Kim Lân. Một nhà văn hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người có lòng đi về với “những gì thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn”. Ngay sau Cách mạng, ông bắt tay vào viết tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”. Khi hòa bình lập lại 1954, nỗi trăn trở thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng truyện ngắn “Vợ nhặt” ra đời. Trong lần này Kim Lân đã thật sự đem đến cho tác phẩm của mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của những người nông dân nghèo, tiêu biểu như Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện thành công, khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã có khám phá diễn biến tâm lí nhân vật thật bất ngờ. 11 Đoạn dẫn mở bài xuất phát từ một đề tài quen thuộc. Ví dụ Phân tích bài thơ “Sóng” của nhà thơ Xuân Quỳnh? Mở bài Tình yêu là một đề tài quen thuộc trong thơ ca. Nhưng không phải vì thế mà nó thành đơn điệu và nhàm chán. Mỗi bài thơ, mỗi nhà thơ là một thế giới riêng, một nhu cầu, một khát khao riêng không ai giống ai. Chẳng thế mà ta gặp Xuân Diệu trong thi đàn Việt Nam với chất men say tình yêu nồng nàn, mãnh liệt, người tự cho mình là “kẻ uống tình yêu dập cả môi”, ta gặp Nguyễn Bính “dạt dào với những câu hát đồng quê” chân chất thật thà… và thật bất ngờ khi gặp một nữ sĩ với tâm hồn mãnh liệt và say đắm trong tình yêu – Xuân Quỳnh. Thơ tình yêu của Xuân Quỳnh chân thành nữ tính nhưng không kém phần cháy bỏng, nồng nàn. Điều đó thể hiện rõ nét trong bài “Sóng”. Lưu ý Ưu điểm và hạn chế của cách mở bài này ngược với ưu điểm và hạn chế trong cách mở bài trực tiếp. Khi mở bài theo cách này thì sang phần thân bài học sinh cần có một đoạn văn chuyển ý nêu khái quát về tác giả, tác phẩm, vừa làm cho bài viết uyển chuyển hơn vừa tránh thiếu ý của bài viết. Có hàng trăm cách mở bài khác nhau, trên đây chỉ là vài gợi ý để học sinh có thể chủ động áp dụng. Tóm lại Kết cấu của đoạn mở bài theo cách gián tiếp gồm 3 phần – Mở đầu đoạn + Viết những câu dẫn dắt có liên quan gần gũi với vấn đề chính cần nghị luận. + Tuỳ nội dung vấn đề cần nghị luận mà người viết lựa chọn câu dẫn dắt có thể là một câu thơ, một câu danh ngôn, hoặc một câu chuyện kể… – Phần giữa đoạn + Nêu luận đề nếu bình giảng thơ thì thường là nêu ấn tượng bao trùm mang tư tưởng chủ đề mà bản thân cảm nhận được. – Phần kết đoạn Nêu phương thức nghị luận và phạm vi tư liệu sẽ trình bày. 4. Những lời khuyên với học sinh Trên đây, chúng tôi đã cố gắng tóm lược những vấn đề căn cốt của việc viết mở bài trong văn nghị luận. Học sinh cần đọc kỹ phần 1 trong bài sau đó mới theo ứng dụng tại phần 2. Điều quan trọng nhất là tìm vấn đề định nghị luận là gì? Hãy viết nháp nó ra hoàn chỉnh. Dựa trên bản nháp đó tùy theo sở trường, năng lực, điều kiện của mình, nếu gặp những kiến thức có các dạng gợi ý trên đây, học sinh sẽ thêm vào đoạn dẫn là có một mở bài hoàn hảo. Chuyên đề được sưu tầm. Có chỉnh sửa và lược bớt một số phần Xem thêm tuyển tập những mở bài hay và độc đáo Mở bài mẫu
kỹ năng viết đoạn văn nghị luận